bùi thị xuân 2k3 chết

Từ niên khóa 1977 - 1978, trường được đổi tên thành trường công lập PTTH Bùi Thị Xuân - một vị nữ tướng của Nghĩa quân Tây Sơn. Tính đến năm 2015 – 2016, trường có hơn 200 giải học sinh giỏi cấp Thành phố, nâng tổng số học sinh giỏi cấp thành phố từ năm 1983 đến Ngày 6 tháng 11 năm Nhâm tuất (20-11-1802), vua tôi nhà Tây Sơn trong đó có Bùi Thị Xuân cùng chồng con bị đưa ra pháp trường tại Phú Xuân. Chồng bà bị xử tội lột da, còn bà cùng con gái độc nhất 15 tuổi tên Trần Bích Xuân bị xử voi dày (bãi chém An Hoà, ngoại ô Huế, ở Viet69 - Mâu Thuẫn Chuyện Phơi Quần Áo, Nam Thanh Niên Khiến Người Cùng Khu Trọ Tử Vong Ở TP HCM | SKĐS Ngân hàng Vietcombank Quận 1 - APi thanh toán. Trụ sở Chi nhánh. Địa chỉ: 69 Bùi Thị Xuân, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Điện thoại: 028.38359323/ 028.38359262. Fax: 028.38325041. Apithanhtoan.com 3 phút trước 388 Like. Bánh nóng hổi, giòn rụm. Chả cá là chiên ra lò xong là bán liền tay nên hoàn toàn yên tâm chất lượng. Mình thích ăn nhiều tương ớt nên dặn xịt cho nhiều tương. Ngon lắm luôn. 1 ổ có 15k, quá bình dân. Chiều là có bán rồi nè. Anh chủ dễ thương. Chiều mưa là lại dâng lên Lieu De Rencontre Dans Le Jura. Thân thế và sự nghiệp Hết lòng vì nhà Tây Sơn Bị voi giày Được ca ngợi Có tấm lòng thương dân Không vì tình riêng Nỗ lực đến giây phút cuối cùng Bại trận vẫn hiên ngang Kết Trùng tên Xem thêm Tham khảo Chú thích Bùi Thị Xuân Tượng Đô đốc Bùi Thị Xuân trong Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt Bảo tàng Quang Trung, Bình Định Tên bản ngữ 裴氏春 Sinh 1771 Mất 1802 Nguyên nhân mất Gia Long xử tử Quốc gia Việt Nam Quốc tịch Việt Nam Nghề nghiệp Đô đốc Kỷ nguyên Triều đại Tây Sơn Nổi tiếng vì nữ đô đốc trong triều đình Tây Sơn Quê quán thôn Xuân Hòa nay thuộc thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định Đảng phái chính trị Tây Sơn Phong trào chính trị khởi nghĩa Tây Sơn Đối thủ Nguyễn Ánh Phối ngẫu Thái phó Trần Quang Diệu Con cái Trần Thị Cúc Bích Xuân Cha mẹ Bùi Đắc Chí Bùi Thị Xuân chữ Hán 裴氏春; 17711 -1802 là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư2 , là vợ Thái phó Trần Quang Diệu và là một Đô đốc của vương triều Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Thân thế và sự nghiệpBùi Thị Xuân là người ở thôn Xuân Hòa nay thuộc thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.Bà là con gái của Bùi Đắc Chí. Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, Bùi Thị Xuân sớm được học văn và học võ. Tương truyền, nàng là người có nhan sắc, khéo tay và viết chữ đẹp. Đến khi theo học võ với Đô thống Ngô Mạnh, bà cũng nhanh chóng thành thạo, nhất là môn song kiếm. Nhờ vậy sau này, người con gái này đã dùng kiếm để giải nguy cho Trần Quang Diệu khi vị tráng sĩ này bị một con hổ dữ tấn công. Và cũng từ lần gặp này mà hai người trở thành vợ chồng khi ông Diệu đến ở nhà người con gái Xuân Hòa để trị thương, rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc. Hết lòng vì nhà Tây SơnVới tài nghệ ngoài tài kiếm thuật, bà còn giỏi bắn cung, cưỡi ngựa và luyện voi cộng với lòng dũng cảm, Bùi Thị Xuân cùng chồng nhanh chóng trở thành những tướng lĩnh trụ cột, góp công lớn trong công cuộc dựng nghiệp của nhà Tây Sơn ngay từ buổi tài liệu, trong trận đại phá quân Mãn Thanh vào đầu xuân Kỷ Dậu 1789, bà chỉ huy đội tượng binh của đạo Trung quân do vua Quang Trung Nguyễn Huệ chỉ huy 3 .Trong những năm tiếp theo, bà cùng chồng cầm quân đi đánh dẹp các phe chống đối vương triều mới nhà Tây Sơn, trong số đó có lực lượng của hoàng thân nhà Lê là Lê Duy Chỉ cấu kết với Tù trưởng Bảo Lạc Hà Tuyên...Giữa lúc nhà Tây Sơn đang từng bước ổn định tình hình trong nước, ngày 29 tháng 7 năm 1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời. Kể từ đấy vương triều này bắt đầu suy yếu do vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản còn nhỏ, lại bị người cậu ruột là Thái sư Bùi Đắc Tuyên chuyên gian này, Bùi Thị Xuân được cử vào trấn thủ Quảng Nam, còn chồng bà Trần Quang Diệu thì được cử vào Diên Khánh chống ngăn quân Nguyễn. Đến khi nghe tin cha con Bùi Đắc Tuyên bị tướng Võ Văn Dũng bắt giết, Trần Quang Diệu cả sợ, phải kéo quân về kinh đô đóng ở bờ Nam sông An Cựu, thì bà cũng nhận được lệnh hồi mật thám báo tin nội bộ nhà Tây Sơn đang lục đục, chúa Nguyễn Phúc Ánh liền tổ chức ngay những cuộc tấn công. Nhưng quân Nguyễn vừa tiến vào thành Quảng Nam, thì bị đánh một trận tơi bời. Tức tối vì thua mưu trí đàn bà, chúa Nguyễn thề sẽ sớm rửa mối nhục4 . Thấy Chúa Nguyễn rút lui hết, đến lúc ấy, Bùi Thị Xuân mới kéo quân về Phú Xuân để cùng chồng dàn xếp việc triều chính...Mùa xuân năm 1802, vua Cảnh Thịnh sai em là Nguyễn Quang Thùy vào trấn giữ Nghệ An, còn tự mình cầm quân đi đánh chiếm lại Phú Xuân. Trong chiến dịch này, Bùi Thị Xuân được lệnh đem quân đi hộ thế trận ngày càng bất lợi, Bùi Thị Xuân cưỡi voi liều chết đánh riết vào lũy Trấn Ninh, nơi Nguyễn Phúc Ánh đang cố thủ, từ sáng đến chiều, máu và mồ hôi ướt đẫm áo giáp. Rồi bà còn giành lấy dùi tự tay thúc trống liên hồi. Lúc bấy giờ chúa Nguyễn cùng tướng tá đã hốt hoảng vội chia quân vượt sông Linh Giang đánh bọc hậu hòng mở đường máu thoát thân. Nào ngờ vua Cảnh Thịnh thấy quân Nguyễn tràn qua nhiều, tưởng nguy khốn liền cho lui binh. Bùi Thị Xuân bèn nắm áo ngự bào của nhà vua để khuyên cố đánh. Nhưng khi nghe tin tướng Nguyễn Văn Trương phá tan thủy binh Tây Sơn ở cửa biển Nhật Lệ Quảng Bình, cướp được hầu hết tàu thuyền và tướng giữ cửa Nguyễn Văn Kiên cũng đã đầu hàng; thì đội quân của bà hốt hoảng bỏ cả vũ khí, đạn dược để tháo chạy...Đây có thể nói là trận chiến đấu oanh liệt cuối cùng của bà để hòng cứu vãn tình thế. Nhưng ngờ đâu nhà Tây sơn, sau trận này thêm trượt dài trên đà suy vong, không sao gượng lại được nữa...5 Bị voi giàyĐược tin đại quân Tây Sơn thua to ở Trấn Ninh, Tư đồ Vũ Văn Dũng và chồng Bùi Thị Xuân là Thái phó Trần Quang Diệu, dù biết không thể giữ được Quy Nhơn, nhưng vẫn gắng gượng đến tháng 3 cùng năm trên mới rời bỏ thành, đem binh tượng đi đường thượng đạo qua Ai Lao ra Nghệ An, ý là để hội quân với vua Cảnh Thịnh cùng lo chống gia C. B. Mabon kểTrần Quang Diệu cùng vợ và con gái, dẫn theo một số tàn quân chạy ra Bắc bằng đường thượng đạo Ai Lao. Đến châu Quy Hợp, Diệu xuống Hương Sơn thì biết tin Nghệ An đã mất. Quân sĩ của Diệu bỏ cả rồi, mấy hôm sau vợ chồng Quang Diệu đều bị bắt cả...Vua Cảnh Thịnh cùng hai em và vài tướng tá vượt qua sông Nhị Hà, tính trốn lên vùng Thượng du cũng bị dân chúng bắt và đóng cũi nộp cho quân Nguyễn...6 Trước khi trích dẫn tài liệu của một giáo sĩ phương Tây tên là De La Bissachère người có dịp chứng kiến buổi hành hình được viết năm 1807, mô tả lại cái chết của mẹ con bà Bùi Thị Xuân, sử gia Phạm Văn Sơn đã có lời giới thiệu như sauMẹ con bà Bùi Thị Xuân, người ta ý nói đến vua Gia Long cũng rất căm thù, nên cũng dùng hình phạt dã man nhất. Nguyên nhân là bà đã điều khiển binh sĩ đánh vào lũy Trấn Ninh hết sức kịch liệt, đã làm cho chúa Nguyễn và các tướng sĩ có phút phải thất thần, tưởng chừng nguy khốn đến tài liệu của giáo sĩ De La BissachèreĐứa con gái trẻ của bà Bùi Thị Xuân Một thớt voi từ từ tiến đến. Cô gái biến sắc rồi mặt trắng bệch như tờ giấy. Nàng ngoảnh nhìn mẹ, kêu thất thanh. Bà Xuân nghiêm mặt trách Con phải chết anh dũng để xứng đáng là con của ta!...Đến lượt bà, nhờ lớp vải ở bên trong quấn kín thân thể, nên tránh khỏi sự lõa lồ. Và bà rất bình thản bước lại trước đầu voi hét một tiếng thật lớn khiến voi giật mình lùi lại. Bọn lính phải vội vàng bắn hỏa pháo,đâm cây nhọn sau mông con vật để nó trở nên hung tợn, chạy bổ tới, giơ vòi quấn lấy bà tung lên trời...Nhưng trái với lệ thường, nó không chà đạp phạm nhân như mọi bận mà bỏ chạy vòng quanh pháp trường, rống to lên những tiếng đầy sợ hãi khiến hàng vạn người xem hoảng hốt theo...7 Được ca ngợiCông luận bình phẩm, hầu hết đều khen ngợi oai danh và tiết tháo của Bùi Thị Xuân. Theo sử liệu, sở dĩ được vậy là vì trong cuộc đời bà có mấy sự việc đáng chú ý sau Có tấm lòng thương dânGặp năm mất mùa, nhiều phủ huyện ở trấn Quảng Nam sinh loạn, quan quân địa phương không kiềm chế nổi. Triều thần lập tức tiến cử Bùi Thị Xuân ra nơi đó làm Trấn thủ. Đến nơi, bà tự mình đi thị sát khắp các hạt, rồi cho mở kho phát chẩn. Thấy viên quan nào chiếm công vi tư, ăn của hội lộ...bà đều thẳng tay cách chức, chọn người tài đức lên thay. Ngoài ra, bà còn ra lệnh bãi bỏ các cuộc truy lùng những nhóm người nổi dậy, và mạnh dạn ra tuyên cáo rằng Ai vác cày bừa, nông cụ thì được coi là dân lành...Vì thế nạn trộm cướp và chống đối ở Quảng Nam nhất là ở huyện Quế Sơn nhanh chóng chấm dứt, dân chúng lại được yên ổn làm ăn...8 Không vì tình riêngThái sư Bùi Đắc Tuyên, người làng Xuân Hòa huyện Tuy Viễn, là cậu của vua Cảnh Thịnh, và là chú của Đô đốc Bùi Thị Xuân. Năm 1795, vì ông bị Võ Văn Dũng giết chết vì tội chuyên quyền. Bấy giờ, có nhiều người nghi ngại Bùi Thị Xuân, vì bà là cháu ruột của Đắc Tuyên. Nhưng khác với những gì xầm xì, bà đã không hề thù oán người giết chú ruột mình, cũng như lợi dụng sự rối ren đó mà đi theo đối phương hay tìm nơi cát cứ...9 Nỗ lực đến giây phút cuối cùngĐề cập đến tinh thần quyết chiến thắng của Bùi Thị Xuân trong trận Trấn Ninh 1802, trong bài thơ dài Bùi phu nhân ca của danh sĩ Nguyễn Trọng Trì 1854-1922 có đoạn Xuân hàn lãnh khí như tiễn đaoXuân phong xuy huyết nhiễm chinh bàoHoàng hôn thành dốc bi già độngHữu nhân diện tỷ phù dung kiềuPhu cổ trợ chiến Lương Hồng NgọcMộc Lan tòng quân Hoàng Hà KhúcThùy ngôn cân quắc bất như nhân ?Dĩ cổ phương kim tam đinh túc. Nghĩa làKhí xuân lạnh như khí lạnh nơi lưỡi dao bén thoát xuân thổi máu bay đẫm tấm chinh bàoNơi góc thành tiếng tù và lay động bóng hoàng hônCó người dung nhan kiều diễm như đóa hoa phù dungThật chẳng khác Lương Hồng Ngọc đánh trống trợ chiến cho ba nàng Mộc Lan xông trận nơi sông Hoàng HàAi bảo khăn yếm không bằng người ?Từ xưa đến nay vững vàng thế ba chân Bại trận vẫn hiên ngangNgoài thái độ hiên ngang khi bị hành hình, người ta còn truyền rằng khi nghe Bùi Thị Xuân bị bắt, chúa Nguyễn bèn sai người áp giải đến trước mặt rồi hỏi với giọng đắc chíTa và Nguyễn Huệ ai hơn?Bà trả lờiChúa công ta, tay kiếm tay cờ mà làm nên sự nghiệp. Trong khi nhà người đi cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Tàu làm tan nát cả sơn hà, cùng đều bị chúa công ta đánh cho không còn manh giáp. Đem so với chúa công ta, nhà ngươi chẳng qua là ao trời nước vũng. Còn nói về đức độ, thì Tiên đế ta lấy nhân nghĩa mà đối xử với kẻ trung thần thất thế, như đã đối với Nguyễn Huỳnh Đức, tôi nhà ngươi. Còn ngươi lại dùng tâm của kẻ tiểu nhân mà đối với bậc nghĩa liệt, đã hết lòng vì chúa, chẳng nghĩ rằng ai có chúa nấy, ái tích kẻ tôi trung của người là khuyến khích tôi mình trung với mình. Chỗ hơn kém rõ ràng như ban ngày và đêm tối. Nếu Tiên đế ta đừng thừa long quá sớm, thì dễ gì nhà ngươi trở lại đất nước Nguyễn gằn giọngNgười có tài sao không giữ nổi ngai vàng cho Cảnh Thịnh?Bà đápNếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc Hà...11 KếtBộ đồ thờ giản dị tại từ đường họ Bùi. Cổ vật hiện được trưng bày trong Bảo tàng Quang Trung Bình Định, Việt Nam.Sử gia Phạm Văn Sơn, viếtNgười ta cảm phục Bùi Thị Xuân chẳng riêng chỗ bà có nhan sắc hơn người, mà còn ở chỗ có gan dạ và trí lược của một đại tướng. Người ấy đã có công gây dựng một phần sự nghiệp của chồng và của ba anh em vua Tây Sơn, đã bao phen xuất nhập chiến trường, vào sinh ra tử...12 Giáo sư sử học Nguyễn Khắc Thuần, viếtTrong khởi nghĩa Tây Sơn nói riêng và trong lịch sử quân sự Việt Nam nói chung, Bùi Thị Xuân là một hiện tượng rất đặc biệt. Cùng với chồng và hàng vạn các nghĩa sĩ Tây Sơn, bà đã đi suốt cả một cuộc trường chinh ba chục năm trời, anh dũng chống cả thù trong lẫn giặc ngoài, một lòng một dạ vì sự nghiệp cứu dân cứu nước. Từ một phụ nữ bình thường, Bùi Thị Xuân đã trở thành một danh tướng được đời đời kính trọng...13 Cảm phục bà, một người không rõ tên, đã làm bài thơ sauVận nước đang xoay chuyểnQuần thoa cũng vẫy vùngLiều thân lo cứu chúaCông trận quyết thay khái khi lâm nạn!Kiên trinh lúc khốn cùngNgàn thu gương nữ liệtGương sáng hãy soi Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài bút ký Còn mãi đến bây giờCác gia đình họ Bùi hiện còn ở làng này đều là phái nhánh, còn phái chánh tức phái của Bùi Thị Xuân đã bị Gia Long giết sanh ở ấp Xuân hòa, nay gọi là Phú Xuân. Lớn lên, bà đi học võ nghệ với một võ sư người việt ở Thuần Truyền. Lò võ đó nổi tiếng từ thời Lê đến nay. Môn sinh rất đông, cả nam lẫn nữ và bà làm trưởng môn. Ít lâu sau ngày Tây Sơn khởi nghĩa, bà dẫn cả đoàn võ sinh đến tòng quân, theo Nguyễn Huệ đánh Đông dẹp Bắc, sự nghiệp lừng lẫy. Ở bên Phú An nay hãy còn một đám đất gọi là Trường Võ, đó là nơi bà mở trường dạy võ nghệ cho các nghĩa sĩ trong quân đội Tây ấy, bà Bùi Thị Xuân còn là một nữ tướng trẻ tuổi, xinh đẹp. Ngoài tài năng võ nghệ, cầm binh, huấn luyện voi rừng nghe đâu dãy gò Dinh, sông Côn là bãi tập voi của bà...bà còn giỏi cả việc đi buôn trầu ở An Khê, có tài thuyết phục người ở miền Thượng hơn cả Nguyễn Nhạc, giỏi cả việc khai hoang, làm thủy lợi như biến lòng một con suối khô, chỉ toàn là cát đá thành vùng đất màu mỡ "nhất đẳng điền" tên là ruộng Trại, rộng hơn hai chục hécta để lấy lúa nuôi quân...Để đến nhà bà, chúng tôi đi thêm một quãng đường làng, rẽ vào một xóm nhỏ gồm ba bốn túp nhà xúm xít trên một khu đất chật chội, dừng lại trước một căn nhà hoang vắng. Đó chỉ là một căn nhà nhỏ, quá nhỏ đến không ngờ, nhà rường ba gian nhưng tất cả chỉ rộng độ 5 mét, nên 2 gian bên bị ép lại thành hai cái chái chật chội chỉ vừa đủ đặt một chiếc chõng đơn cho một người nằm...Đồ đạc không còn lại gì, ngoài một chiếc tủ gỗ mộc, phía dưới có những ngăn kéo, hình như xưa dùng để đựng quần áo. Tất cả chỉ có thế, từ thế kỷ 18 cho đến bây giờ!...14 Trùng tênGiống như trường hợp của Ngô Văn Sở, cũng có một nhân vật nữ tên là Bùi Thị Xuân làm quan cho triều Nguyễn Gia Long, bà này được phong là Đệ Nhất Huân Thần của triều Nguyễn. Xem thêm Trận Trấn Ninh 1802 Trần Quang Diệu Tham khảo Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên quyển 4. Tủ sách sử học Việt Nam xuất bản, Sài Gòn, 1961. Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992. Nguyễn Đắc Xuân, Khí phách Bùi Thị Xuân in trong Hương giang cố sự. Tủ sách Sông Hương xuất bản, 1986. Nguyễn Khắc Thuần, Danh tướng Việt Namtập 3. Nhà xuất bản Giáo dục, 2005. Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tuyển tập tập 2. Nhà xuất bản Trẻ, 2002. Quách Tấn- Quách Giao, Nhà Tây Sơn. Bảo tàng Quang Trung Bình Định xuất bản, 2002. Nhóm Nhân văn Trẻ, Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 3. Nhà xuất bản Trẻ, 2007. Quỳnh Cư, Đô đốc Bùi Thị Xuân. Nhà xuất bản Phụ nữ, 1982. Lê Minh Quốc, Các vị nữ danh nhân Việt Nam. Nhà xuất bản Trẻ, 2009. Thu Hằng, Mười phụ nữ huyền thoại Việt Nam. Nhà xuất bản Lao động, 2008. Chú thích ^ TS. Đinh Văn Liên ghi Bùi Thị Xuân sinh năm 1752 Bình Định-Đất võ trời văn. Nhà xuất bản Trẻ, 2008, tức khi bị hành hình bà mới 50 tuổi. Song theo Gia phả họ Nguyễn ở làng An Hải, thì Trần Quang Diệu sinh năm 1760. Vậy có thể bà cũng chỉ sinh ở khoảng thời gian này. Gia phả còn ghi rằng tên tục của bà là Út, tên thường gọi là bà Siêu, vì chồng bà từng được phong tước Siêu võ hầu theo Bùi Xuân, bài viết in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học danh nhân Thoại Ngọc Hầu do Hội khoa học Lịch sử Việt Nam, UBND tỉnh An Giang và UBND thành phố Đà Nẵng phối hợp tổ chức và ấn hành năm 2009, tr. 168. ^ Theo "Cân quắc anh hùng truyện" của danh sĩ Nguyễn Bá Huân thì Nguyễn Huệ còn ban hiệu cho bà là Anh hùng cân quấc Cân quắc khăn trùm đầu của phụ nữ, chỉ người phụ nữ. Truyện này có in trong Bắc Bình Vương do Phạm Minh Thảo soạn Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, 2008. ^ Theo Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 3, tr. 268. Trong sách Nhà Tây Sơn, thi sĩ Quách Tấn quê ở Tây Sơn còn cho biết ở trận Rạch Gầm-Xoài Mút đánh tan 20 vạn quân Xiêm La, Trần Quang Diệu-Bùi Thị Xuân cũng đã lập đại công. Vợ chồng ông điều khiển bộ binh, tướng Võ Văn Dũng cùng Nguyễn Huệ chỉ huy thủy quân tr. 97. Tuy nhiên, thông tin này chưa được kiểm chứng và cũng chưa tìm thấy ở tài liệu khác. ^ Theo Các vị nữ danh nhân Việt Nam, tr. 68. ^ Xem nguồn tham khảo và thông tin chi tiết tại trang Trận Trấn Ninh 1802. ^ Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên quyển 4, tr. 239. ^ Chép theo đoạn trích in trong Việt Sử tân biên quyển 4, tr. 245-246. Theo Thiên Nam nhân vật chí, bà bị xử lăng trì, thi hài bị thiêu rụi... Tác giả Đặng Duy Phúc trong sách Việt Nam anh kiệt Nhà xuất bản Hà Nội, năm 2004 cho biết thêm chi tiết Khi voi đưa chân toan chà đạp, bà đã thét lên một tiếng như sấm dậy khiến voi thất kinh phải thối lui, không chịu theo sự điều khiển của quản tượng. Cuối cùng, vua Nguyễn lệnh cho dùng hình phạt cột bà vào trụ sắt, lấy vải nhúng sáp nóng quấn khắp người bà rồi đốt cháy một cách man rợ... ^ Kể theo Mười phụ nữ huyền thoại Việt Nam, tr. 77. ^ Kể theo GS. Nguyễn Khắc Thuần, Danh tướng Việt Nam. Nhà xuất bản Giáo dục, 2005, tr. 292-293. ^ Chép theo Nhà Tây Sơn, tr. 193-194. ^ Kể theo Nhà Tây Sơn, tr. 201-202. ^ Việt sử tân biên quyển 4, tr. 245. ^ Danh tướng Việt Namtập 3, tr. 291. ^ Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, tập 2, tr 242 và 247. Nguồn Wikipedia “ĐEM SO VỚI CHÚA CÔNG TA, NGƯƠI CHỈ LÀ NƯỚC VŨNG SO VỚI AO TRỜI” ————————- Chuyện kể lại rằng, sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ, bà Bùi Thị Xuân cũng bị quân Nguyễn bắt, giải về Phú Xuân để trị tội. Khi hay tin, nữ danh tướng của Tây Sơn đã bị giải đến, Nguyễn Ánh đắc chí mà đến hỏi bà rằng “Ta và Nguyễn Huệ ai hơn?”. Đáp lại câu hỏi đầy thách thức của Nguyễn Ánh, bà chỉ khinh khỉnh mà đáp “Chúa công ta, tay kiếm tay cờ mà làm nên sự nghiệp. Trong khi nhà người đi cầu viện ngoại bang, làm tan nát cả sơn hà, cũng đều bị chúa công ta đánh cho không còn manh giáp. Đem so với chúa công ta, nhà ngươi chẳng qua là ao trời nước vũng”, đồng thời ném cho Nguyễn Ánh một ánh mặt khinh bỉ. Trước câu trả lời mỉa mai của bà, Nguyễn Ánh gằn giọng, đành phải lái câu chuyện từ Quang Trung sang Bùi Thị Xuân mà chất vấn “Ngươi có tài sao không giữ nổi ngai vàng cho Cảnh Thịnh?”. Bà đáp “Nếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc Hà…”. Khi Nguyễn Ánh hỏi bà có muốn ân xá không, nữ tướng đã nói dõng dạc “Ta đâu có sợ chết mà phải chịu nhục, hạ mình trước một kẻ tiểu nhân đắc thế?”. Nguyễn Ánh nghe thấy thế, vô cùng căm phẫn, thù cũ nợ mới đã chồng chất và Bùi Thị Xuân đã phải chịu hình phạt đau đớn nhất, đó là bị voi giày đến chết. Hưởng thọ 50 tuổi. VẺ ĐẸP BẤT TỬ TRONG CÁI CHẾT CỦA BÀ BÙI THỊ XUÂN Giáo sĩ người Pháp De La Bissachère, người có dịp chứng kiến cuộc hành hình đã mô tả cái chết của nữ tướng Bùi Thị Xuân trong cuốn ký sự “Relation sur le Tonkin et la Cochinchine” xuất bản năm 1802 như sau Đứa con gái trẻ của bà bị lột hết y phục. Một thớt voi từ từ tiến đến. Cô gái biến sắc rồi mặt trắng bệch như tờ giấy. Nàng ngoảnh nhìn mẹ, kêu thất thanh. Bùi Thị Xuân nghiêm mặt trách Con phải chết anh dũng để xứng đáng là con của ta!… Đến lượt bà, nhờ lớp vải ở bên trong quấn kín thân thể nên tránh khỏi sự lõa lồ, bà không đổi sắc tiến đến trước con voi như chọc tức nó. Mấy võ quan thét la om sòm bắt bà quỳ xuống. Bà cứ thản nhiên tiến bước. Đến trước đầu voi, bà hét một tiếng thật lớn khiến voi giật mình lùi lại. Bọn lính phải vội vàng bắn hỏa pháo, đâm cây nhọn sau đùi con vật để nó trở nên hung tợn. Nó chạy bổ tới, giơ vòi quấn lấy bà tung lên trời… Nhưng trái với lệ thường, con voi không chà đạp phạm nhân như mọi lần mà bỏ chạy vòng quanh pháp trường, rống lên những tiếng đầy sợ hãi khiến hàng vạn người xem hoảng hốt theo… Cảm phục tinh thần của Bùi Thị Xuân, một tác giả khuyết danh đã làm bài thơ Bùi nữ tướng, được lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Nội dung bài thơ như sau “Vận nước đang xoay chuyển Quần thoa cũng vẫy vùng Liều thân lo cứu chúa Công trận quyết thay chồng. Khảng khái khi lâm nạn! Kiên trinh lúc khốn cùng Ngàn thu gương nữ liệt Gương sáng hãy soi chung“. ————————- Bùi Thị Xuân ở làng Phú Xuân, xã Bình Phú huyện Bình Khê nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, là cháu thái sư Bùi Đắc Tuyên. Bà là người phụ nữ xinh đẹp, nhờ sớm học võ với đô thống Ngô Mạnh nên bà rất giỏi võ nghệ, nhất là môn song kiếm. Trên đường đến Tây Sơn tụ nghĩa, Trần Quang Diệu đã đánh nhau với một con hổ lớn, hung dữ. Nhân đi qua đấy, bà Xuân đã rút kiếm xông vào cứu trợ. Quang Diệu bị hổ vồ trọng thương nên phải theo bà về nhà chữa trị. Sau này, hai người thành gia thất rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc. Nhờ vào tài nghệ về chiến thuật, binh bị cộng với lòng dũng cảm, vợ chồng bà nhanh chóng trở thành những tướng lĩnh trụ cột, góp công lớn trong công cuộc đánh đuổi quân Mãn Thanh và so tranh quyết liệt với quân Nguyễn Ánh hơn 10 năm. Tượng Đô đốc Bùi Thị Xuân trong Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt Bảo tàng Quang Trung, Bình Định Khi gia nhập nghĩa quân Nguyễn Huệ, người con gái trẻ đẹp làng Xuân Hòa này không chỉ tòng quân một mình mà còn dẫn theo một đội nữ binh do mình đào tạo và một đoàn voi rừng đã được bà rèn luyện thuần thục. Bà được phong là đô đốc. Giữa lúc Tây Sơn đang rất thành công với các hoạt động chính trị, quân sự, ngoại giao và phát triển kinh tế thì đột ngột vào ngày 29/7/1792, Quang Trung Nguyễn Huệ mất, để lại nhiều thương tiếc. Cũng từ đây triều đại Tây Sơn bắt đầu suy yếu do vua Cảnh Thịnh Quang Toản còn nhỏ, không giữ được việc triều chính, bị họ ngoại chuyên quyền, dẫn đầu số đó là cậu họ Thái sư Bùi Đắc Tuyên. Các đại thần kết bè phái, quay sang giết hại lẫn nhau dẫn đến nội bộ lục đục, triều chính suy vi, khiến lòng dân vốn đã sống quá nhiều năm trong cảnh máu lửa càng thêm oán ghét cảnh phân tranh, loạn lạc... Và đây thật sự là một cơ hội vàng cho đối phương. Tức thì Nguyễn Ánh xua quân chiếm lại Quy Nhơn vào năm 1799. Bùi Thị Xuân cùng chồng một mặt tham gia củng cố triều chính, một mặt chỉ huy quân sĩ giữ lũy Trấn Ninh, chống lại quân Nguyễn. Tuy nhiên trước sức tấn công mạnh mẽ của Nguyễn vương, các thành luỹ của Tây Sơn nhanh chóng bị mất. Bà Xuân cùng chồng con bị quân Nguyễn bắt được ở huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. 6/11 năm Nhâm Tuất 2011-1802, vua tôi nhà Tây Sơn trong đó có Bùi Thị Xuân cùng chồng con bị đưa ra pháp trường tại Phú Xuân. Chồng bà bị xử tội lột da, còn bà cùng con gái độc nhất 15 tuổi tên Trần Bích Xuân bị xử voi giày bãi chém An Hoà, ngoại ô Huế, ở đó khoảng 200 tướng lĩnh của nhà Tây Sơn đã hiên ngang ra pháp trường. Theo tư liệu của một giáo sĩ phương Tây De La Bissachère viết năm 1807- người có dịp chứng kiến - đã miêu tả buổi hành hình được tóm lược như sau "Đứa con gái trẻ của bà bị lột hết y phục. Một thớt voi từ từ tiến đến. Cô gái biến sắc rồi mặt trắng bệch như tờ giấy. Nàng ngoảnh nhìn mẹ, kêu thất thanh. Bà Xuân nghiêm mặt trách Con phải chết anh dũng để xứng đáng là con của ta! Đến lượt bà, nhờ lớp vải ở bên trong quấn kín thân thể, nên tránh khỏi sự lõa lồ. Và bà rất bình thản bước lại trước đầu voi hét một tiếng thật lớn khiến voi giật mình lùi lại. Bọn lính phải vội vàng bắn hỏa pháo, đâm cây nhọn sau đít con vật để nó trở nên hung tợn, chạy bổ tới, giơ vòi quấn lấy bà tung lên trời... Nhưng trái với lệ thường, nó không chà đạp phạm nhân như mọi bận mà bỏ chạy vòng quanh pháp trường, rống lên những tiếng đầy sợ hãi khiến hàng vạn người xem hoảng hốt theo". Bùi Thị Xuân – Tranh của họa sĩ Đỗ Duy Anh Việt Jackson Trước khi vào bài Hàng năm cứ vào ngày mùng 5 tháng Giêng, nhân dân Hà Nội thường tổ chức hội Gò Đống Đa để ôn lại những sự kiện lịch sử đã diễn ra tại nơi đây. Trong không khí hào hùng của lễ hội này, tôi không khỏi suy nghĩ về cuộc đời nữ tướng Bùi Thị Xuân, người dù không trực tiếp tham gia trận đánh nhưng vẫn có một ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử nhà Tây Sơn. Bà được nhiều người ca tụng, rằng sống một cuộc đời anh hùng, và chết một cái chết vô cùng bi tráng. Tuy nhiên, tôi đã nghi ngờ rằng sự thật có phải như vậy? Tôi biết rằng, đây là chủ đề rất nhạy cảm, bởi vẫn còn rất nhiều người sẽ nói đây là hành động “viết lại lịch sử”. Theo báo Nhân Dân cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì có ba “xu hướng” – Viết lại lịch sử vì cho rằng thiếu chân thực về tư liệu và thiếu hiểu biết về phương pháp. Chỉ được phép ủng hộ xu hướng này. – Viết lại lịch sử để tô vẽ bản thân. – Viết lại lịch sử với mưu đồ chính trị.[1] Vào bài Đối với những người không bao giờ động vào quyển sách, tư liệu đầu tiên họ nghĩ đến đến là Wikipedia. Wikipedia viết về Bùi Thị Xuân, truy cập ngày 30/1/2018 viết Tất cả những điều trên, có thể khiến cho những người hiểu biết nông cạn về lịch sử ngộ nhận những điều trên là chính xác, rằng Bùi Thị Xuân đã có một cuộc đối đáp đậm tính sử thi với vua Gia Long trước khi bị voi giày. Về hình phạt bị voi giày, Wikipedia về Bùi Thị Xuân, truy cập ngày 22/1/2018 viết Tuy nhiên, sau khi đọc lại một vài lần bài trên Wikipedia về Bùi Thị Xuân, có lẽ tất cả mọi người đều thấy có một vấn đề “Trích tài liệu của giáo sĩ De La Bissachère” mà không hề nói đến tài liệu đó là tài liệu nào. Trước hết, ta cần đặt ra câu hỏi Bissachère là ai, và tài liệu đó là tài liệu nào? Tiểu sử của giáo sĩ De La Bissachèrre Pierre-Jacques Lemonnier de La Bissachère sinh khoảng năm 1764 tại Angers. Học đạo. Gia nhập hội Thừa sai hải ngoại Paris. Tháng 3/1790, ông rời Orient, sang Bắc Hà hoạt động ở vùng Nghệ An. Theo Maybon, năm 1795, đạo Chúa ở vùng Nghệ An bị đàn áp, ông phải trốn tránh. Từ năm 1798 đến năm 1799, có những đàn áp mới, Bissachère phải sống chui nhủi khổ cực. Tới năm 1800, tình hình khá hơn, Bissachère trở lại Nghệ An. Khi Gia Long đánh ra Bắc, đầu tháng 7/1802 đến Nghệ An, Giám Mục Castorie và La Bissachère đến chào. Năm 1806, Bissachère bị bệnh, phải về Macao, tại đây, năm sau, ông gặp và trao cho viên sĩ quan kỵ binh Renouard de Sainte-Croix, tập bản thảo Ký sự của ông, trước khi về Anh tỵ nạn Hội Thừa sai Pháp sau cách mạng 1789 phải chạy sang Anh. Tại London, sinh sống khó khăn, ông gặp nam tước Jean Baptiste de Montyon ở Pháp sang tỵ nạn chính trị; có lẽ họ đã trao đổi với nhau về cuốn ký sự này. Năm 1815, Pháp trở lại chế độ quân chủ, Louis XVIII lên ngôi, Bissachère về Pháp, trở thành chuyên gia của chính phủ Pháp về tình hình Á Đông, đặc biệt Việt Nam. Ông mất năm 1830. Trong thời gian Bissachère ở Bắc, vị Giám mục cai quản địa phận Bắc Hà từ năm 1773 đến năm 1823 là Jean Labartette. Ông sinh ở Ainhoa, miền nam Pyrénées ngày 31/1/1744, miền nam Pyrénées; ngày 29/11/1773 đi truyền giáo, được thăng giám mục năm 1774 và mất ở CổVưu, thuộc Quảng Trị ngày 6/8/1823. Theo thư từ ông viết về hội truyền giáo, ta có thể biết đại lược tình hình từ 1773 đến 1785 đạo Gia Tô ở Bắc Hà được an toàn. Từ khi Nguyễn Huệ chiếm được chính quyền ở Phú Xuân, năm 1786, mọi sự thay đổi Nguyễn Huệ không thích tôn giáo nói chung, buộc các sư sãi về nhà, làm ruộng, đi lính, đóng cửa chùa chiền, giáo đường và cho lệnh tìm bắt giáo sĩ. Khi Bissachère đến Bắc Hà trong năm 1790, vua Quang Trung đã đuổi xong quân Thanh và thu phục toàn thể đất Bắc; thời điểm này Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An cũng đã xây xong. Lúc đó Bissachère ở trong vùng Nghệ An, chắc chắn phải chịu sự hà khắc đó. Về cuốn Ký sự Bissachèrre Tiếp theo, đầu bài viết đã nêu vấn đề tài liệu của giáo sĩ Bissachère là gì? Đó là cuốn La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère Ký sự về Bắc Hà và Nam Hà của ông De La Bissachère– trong bài sẽ gọi tắt là Ký sự. Bìa của cuốn La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère, được bán trên Với niềm cảm phục sâu sắc cho Bùi Thị Xuân, Bissachère đã viết những dòng hết sức hâm mộ sự can đảm và dũng mãnh của bà. Tiếp đó, Bissachère “mô tả” cảnh Gia Long làm nhục hài cốt các vua Tây Sơn và cảnh mẹ con Bùi Thị Xuân bị voi giày với những lời giáo đầu như sau Vua Gia Long trở về Kinh đô Nam Hà nghỉ ngơi khoảng hai tháng. Sau đó ông lo việc hành hình tù nhân. Một trong những người đầy tớ mà tôi [Bissachère] gửi vào triều để xin vua cho tôi một giấy phép, ở trong danh sách những người có thể vào cung, đứng trước mặt vua trong một tháng, y làm việc trong ngày xử tội, nên y nhìn thấy rõ từ đầu đến cuối. Khi trở về, y đã kể cho tôi nghe, hôm nay tôi không nhớ hết tất cả quang cảnh cực kỳ kinh tởm này, tôi chỉ kể lại những điều khủng khiếp nhất mà về sau mọi người trong nước Nam đều biết. Nguyên văn tiếng Pháp Le Roy Gia Long étant arrivé à la Capitale de la Cochinchine s’y reposa pendant deux mois ou environ. Ensuite il s’occupa du supplice de ses prisonniers; un de mes gens que j’avais envoyé à la cour, pour m’obtenir une permission du roy et qui fut porté sur la liste de ceux qui pouvoient entrer au palais et se tenir devant Sa Majesté pendant un mois, se trouva de service le jour de l’éxécution, et il la vit tout entière depuis le commencement jusqu’à la fin. A son retour il m’en a fait le récit, je ne puis m’en rappeler aujourd’hui toutes les circonstances qui d’ailleurs sont extrêmement dégoutantes, je ne rapporterai dont ce que je me souviens, ou ce qui m’a frappé le plus du récit qui m’en a été fait et qui depuis a été publique dans tous les états du roy de Cochinchine. Đoạn văn này cho thấy bảy điểm đáng chú ý sau Việc Gia Long hành hình mà Bissachère mô tả sau đó, không phải là ông ta được xem tận mắt, mà là đầy tớ của ông ta kể lại. Người “đầy tớ” này được ông sai vào triều để xin một giấy phép của vua để làm gì, không được ghi rõ. Tại sao “người đầy tớ” của một giáo sĩ, không có chức gì trong triều đình, lại được quyền đứng trước mặt vua trong khoảng thời gian lên đến một tháng? Nếu như ta tạm hiểu rằng, y được phép hầu Gia Long đến một tháng, vậy tại sao nhà vua lại có chung người hầu với một vị giáo sĩ, mà vị giáo sĩ này vừa phải sống lẩn lút trong rừng? Ngay cả Giám mục Labartette, người cai quản giáo phận Bắc hà tương đương với Giám mục Bá Đa Lộc ở trong Nam cũng phải sống lẩn trốn, khi Gia Long chiếm Phú Xuân không dám ra trình diện. Theo thư của Laurent Barisy gửi M. Marchini, ngày 15/7/1801, vua đã sai ông đi kiếm vị thủ lãnh đạo Gia Tô này. Theo Labartette ông ở Huế việc được vua vời ra là một ân huệ lớn. Một giáo sĩ vô danh như Bissachère làm sao có thể “giao thiệp” với vua, chưa nói đến việc gửi đầy tớ vào triều, xin vua này thế này, thế nọ? Bissachère không hiểu nghi lễ triều đình nước Nam, hoặc cố tình viết lừa người Pháp rằng triều đình Việt Nam như chỗ không người, ai vào cũng được. Trong những dòng văn này, “thế lực” của Bissachère lớn đến độ có quyền gửi “đầy tớ” vào cung xin giấy của vua. Ông ta không hề biết là sứ thần các cường quốc Anh, Pháp đến xin yết kiến mà không có quốc thư cũng không được vua tiếp. Việc xử tử không thể xảy ra trong cung palais như tên “đầy tớ” kể lại. Qua bảy điểm nêu trên, chứng tỏ Bissachère bịa chuyện để phô trương sự quan trọng của mình. Sau đó, Bissachere miêu tả việc hành hình Bùi Thị Xuân và con gái “… ông Trần Quang Diệu bị chặt đầu, người con gái tuổi 15, hết sức khả ái, khi cô trông thấy con voi lớn sừng sững tiến đến quật cô, cô hét lên một tiếng thất thanh thê thảm về phía mẹ, nói với bà rằng “Ôi mẹ ơi cứu con với”! Mẹ cô là người đã cầm đầu quân đội, bảo con “Mẹ cứu thân mẹ còn chưa được làm sao cứu nổi con. Con phải chịu chết như cha và cả gia đình, còn hơn sống nhục với những kẻ này…” Nhiều người xem muốn cứu cô gái, đã phải quay mặt đi để khỏi nhìn thấy cảnh cô bị hai lần voi tung lên trời, rơi xuống trúng hai ngà voi đâm thủngKhi đến lượt vị nữ anh hùng, tức vợ của vị Thiếu Phó, bà hiên ngang tiến đến trước voi để kích thích nó. Khi bà đến gần, người ta hét lên bắt bà phải quỳ xuống cho voi dễ quật, nhưng bà không quỳ, bà tiếp tục đi tới; người ta kể rằng, mặc dù con vật bị kích thích mạnh, vẫn phải bắt buộc nó mới ném bà lên, vì nó đã nhận ra bà là một trong những chủ cũ của nó; trước khi bị hành hình, người đàn bà can đảm này đã cho đem vào nhà tù nhiều tấm lụa để quấn chân và thân mình tới ngực, tránh cho thân khỏi bị lõa lồ khi chịu cực hình”. Tranh minh họa Bùi Thị Xuân bị voi giày. Tranh của Phan Thanh Nam. Bỏ qua những chi tiết dư thừa, ta tập trung vào điểm chính Bùi Thị Xuân đã chết như thế nào? Theo Đại Nam thực lục Thực lục, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, ta thấy tên vị nữ tướng này được ghi chép lần cuối cùng là trong cuộc giao chiến ở cửa biển Nhật Lệ vào tháng Giêng năm Nhâm Tuất 1802 với quân của Nguyễn Ánh, đoạn đó như sau Giặc Tây Sơn Nguyễn Quang Toản sai Nguyễn Quang Thùy và tổng quản Siêu phạm lũy Trấn Ninh, tư lệ Đinh Công Tuyết, đô đốc Nguyễn Văn Đằng, đô đốc Lực không rõ họ kết với hơn trăm thuyền của bọn giặc biển Tề Ngôi bày thủy trận ở ngoài cửa biển Nhật Lệ. Vua sai Nguyễn Văn Trương điều bát thủy binh ra biển ngăn ngừa, Pham Văn Nhân và Đặng Trần Thường đem bộ binh chia đường chống đánh. Giặc đến sát lũy Trấn Ninh. Vua sai quân Túc trực ra ụ bắn ở cửa, bắn giết được hơn một nghìn quân giặc. Giặc đem hết quân đến sát núi Đâu Mâu, bám vào như kiến mà bò lên. Quân ta từ trên núi thả đá xuống, quân giặc bị đè chết rất nhiều. Vợ Trần Quang Diệu là Bùi Thị Xuân cưỡi voi thúc quân liều chết đánh từ sáng đến trưa chưa chịu lui. Vừa gặp thủy binh của Nguyễn Văn Trương, nhân được gió đông bắc đánh phá quân giặc ở ngoài biển, cướp được 20 chiếc thuyền. Bộ binh giặc nghe tin thủy binh thua, sợ mà tan vỡ. Quang Toản chạy về Đông Cao. Nguyễn Văn Kiên đem quân ra hàng…”. Như thế là sau khi giao chiến với quân của Nguyễn Ánh ở lũy Trấn Ninh, quân Tây Sơn do Bùi Thị Xuân chỉ huy đã bị thất trận và tháo chạy. Từ trận đó về sau, không thấy sử nhà Nguyễn nhắc tới tên của bà nữa. Về việc Gia Long bắt và giết các vua quan, tướng lĩnh nhà Tây Sơn trong khoảng thời gian từ 6/1801-7/1802 đã được Thực lục và Liệt truyện ghi lại. Những người bị bắt và giết trong khoảng thời gian này gồm – Tháng 6/1801, bắt được các tướng Nguyễn Văn Khôn, Hồ Văn Tự ở Quảng Ngãi, giải về Kinh. – Phò mã Nguyễn Văn Trị và Đô đốc Nguyễn Văn Sách bị bắt ở mặt trận Phú Xuân. – Nguyễn Thiếp được trở về Nghệ An. – Các em của Quang Toản là Quang Cương, Quang Tự, Quang Điện và hơn 30 người đàn bà bị đem nộp lấy thưởng tại Quảng Bình. – Đóng cũi Nguyễn Quang Cương, Tham lĩnh Ngoạn, Tham lĩnh Tuân giải về Bình Định. – Quang Tự, Quang Điện và Phò mã Nguyễn Văn Trị bị giải về Gia Định, rồi sai giết đi. – Nội hầu Lê Văn Lợi, Thiếu úy Văn Tiến Thể, Phụ chính Trần Văn Kỷ, Thượng thư Bộ Lại Hồ Công Diệu ra hàng. – Tháng 11-12/1801 tháng 11 ÂL, Thực lục ghi “Phá hủy mộ Tây Sơn Nguyễn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ. Con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu, 31 người, đều bị xử lăng trì và cắt nát thây”. Rồi ra bố cáo “Bắt được con cái tướng tá của Nguyễn Văn Huệ nhiều không kể xiết … Nay đã phá hủy mồ của vợ chồng giặc Huệ, bêu đầu phơi xác. Đồ đảng của chúng bắt được cũng đều giết hết”. – Tháng 4/1802, bắt được cả ba người con của Nguyễn Nhạc là Thanh, Hán và Dũng, sai giết cả. – Tháng 6/1802, bắt được Nguyễn Lân, con Nguyễn Nhạc ở Nghệ An. – 3/7/1803, thiếu úy Đặng Văn Đằng, Đô đốc Đào Văn Hổ đến hàng ở Nghệ An. – Bắt được con Nguyễn Huệ là Quang Bàn cùng Đổng lý Nguyễn Văn Thận ở Thanh Hóa. – Bắt được con Nguyễn Huệ là Thất, Tham đốc Phạm Văn Điềm, Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ, sai giết cả. – Tháng 7/1802, bắt được Thiếu phó Trần Quang Diệu trên đường thượng đạo Nghệ An. – 13/7/1802, bắt được Tư đồ Võ Văn Dũng, sai đóng xiềng giam lại. – 20/7/1802 ngày Canh Thân 21/6 năm Nhâm Tuất, Gia Long đến thành Thăng Long. Ra lệnh Những kẻ có nhận quan chức của giặc ra thú thì được miễn tội, gần thì hạn 3 ngày, xa thì hạn 5 ngày. Nếu quá hạn mà không ra thú, bị người ta bắt được thì làm tội. Những tàn quân của giặc mang theo binh khí trốn về, thì lập tức phái đến cửa quân trao nộp, nếu cất giấu thì xử theo quân pháp.[2] Vua Cảnh Thịnh, như trên đã nói, đã cùng ba em trai Quang Thùy, Quang Duy, Quang Thiệu cùng ba tướng Văn Dụng, Văn Tứ và đô đốc Tú, đến Xương Giang. Quân bỏ chạy. Nguyễn Quang Thùy thắt cổ tự tử. Những người còn lại bị đóng cũi đưa về Thăng Long. Tháng 11 năm Nhâm Tuất, nhà Nguyễn làm lễ tuyên cáo võ công. Ngày 30/11/1802, tế thiên địa. Ngày 1/12/1802, tế hiến phù dâng những người bắt được ở Thái Miếu. Thực lục viết Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ, áp dẫn Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì cho 5 voi xé xác dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và 2 tay 2 chân, rồi cho voi xé xác, đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vứt đi, còn xương đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Huệ thì đều giam ở Nhà đồ ngoại sau đổi là Vũ khố. Năm Minh Mạng thứ 2, đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi. Còn đồ đảng là Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cái trong ngoài. Trong bài chiếu gửi toàn dân, có nói rõ tên chức quan tướng bị giết Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Võ Văn Dũng, Tư mã Nguyễn Văn Tứ, Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng, cùng bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng.[3] Bè lũ đầu sỏ ở đây có thể hiểu là một phần hay toàn bộ những người bị bắt đã kể trên. Tướng bị bắt nhưng xét “vô danh” như Đô đốc Đinh Công Tuyết, không nỡ giết. Trên nguyên tắc, người đầu hàng không bị tội, trừ khi, trước đã hàng, sau lại theo Tây Sơn, như Thái bảo Phạm Văn Tham, Phụ chính Trần Văn Kỷ, Tham đốc Phạm Văn Điềm, Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ, đều bị giết. Và ta không thấy tên Bùi Thị Xuân đâu, vậy có thể bà đã trốn thoát. Đoạn sau bài chiếu ấy, viết rõ hơn “Ngày mồng 6 tháng này 6 tháng 11 năm Nhâm Thân, tức 30/11/1802, tế cáo Trời Đất; ngày mồng 7 7 tháng 11 năm Nhâm Thân, tức 1/12/1802 yết tế Thái miếu, làm lễ hiến phù, bọn Nguyễn Quang Toản và ngụy Thái tể Quang Duy, Nguyên súy Quang Thiệu, Đốc trấn Quang Bàn, Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Võ Văn Dũng, Tư mã Nguyễn Văn Tứ, Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng, cùng với bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng. Nhạc, Huệ trời đã giết rồi, cũng đem phanh xác tan xương, để trả thù cho Miếu Xã, rửa hận cho thần nhân”. Như vậy, bốn người có tội nặng nhất là bốn con của Quang Trung bị voi xé xác. Còn các đại tướng Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, … cùng với “bè lũ đầu sỏ”, đều bị chém bêu đầu. Không hề thấy Thực Lục ghi tên Bùi Thị Xuân trong số những vị tướng bị bắt, cũng chẳng thấy tên bà trong danh sách các tướng bị hành hình. Và nếu đọc kỹ cả Thực lục lẫn Liệt truyện về giai đoạn cuối cùng của Trần Quang Diệu cầm quân từ Quy Nhơn về, trèo đèo lội suối, luôn luôn phải phòng bị quân Nguyễn truy kích từ mọi ngả; khi bị bắt, cả quân tướng đều hoàn toàn kiệt sức, không còn chống nổi nữa. Như vậy, khó có thể ông gặp được vợ, và Bùi Thị Xuân có muốn tìm chồng cũng không biết đâu mà kiếm; nhất là khi Thực lục chuyên chép những sự kiện xác thực mà còn chẳng ghi chuyện này. Á Đông có sự kính trọng nhân tài mà người thiển cận như Bissachère không thể hiểu nổi. Như Trần Quang Diệu khi chiếm được thành Bình Định cũng đã khóc trước sự kiên cường của Võ Tánh và làm lễ chôn cất vị anh hùng nhà Nguyễn đã tử tiết rất trọng thể. Bùi Thị Xuân là một con người quả cảm, và đã được sử thần triều Nguyễn mô tả với sự nể phục, thì nếu bà bị hành quyết thì đã có vài dòng trong Thực lục hoặc Liệt truyện ghi lại chuyện đó. Về tội tử hình và các loại hình xử tử, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ Hội điển ghi Có 5 tội hình tội đánh roi, tội đánh trượng, tội đồ, tội lưu, tội xử tử. Tội xử tử lại chia làm 5 loại Có tội giảo, tội trảm và tội lăng trì, cưu thủ, lục thi. Nếu kẻ nào mà tội ác quá nặng, thì đem thi hành ngay, không phải đợi đến kỳ xét án; còn các tội khác đều đợi đến hạn mùa thu mới đem thi hành án. Giảo là thắt cổ, trảm là chém đầu, lăng trì là xẻo từng miếng thịt, cưu thủ là chém rồi lấy đầu đem bêu, lục thi là băm xác. Như vậy, Gia Long cho thêm tội lục thi là băm xác khi xử tử Tây Sơn trước đó, đời Lê chỉ có giảo, trảm, lăng trì và cưu thủ, và ông đã áp dụng ba loại cực hình sau Đối với các con của Quang Trung Quang Toản, Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn, xử án năm voi xé xác dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay hai chân rồi cho voi xé, đó là một thứ cực hình, đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ đem giã nát rồi vứt đi, còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết, tức là – Lăng trì xử các con Quang Trung, nhưng không cắt từng miếng thịt mà cho 5 voi xé xác. – Lục thi nghiền nát hài cốt của Quang Trung và Thái Đức. – Cưu thủ chém bêu đầu Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng. Không nói gì đến Bùi Thị Xuân. Nếu bà bị tử hình, thì cũng ở trong trường hợp của các đại tướng, tức là chém đầu, không thể ở trong trường hợp xử các con của Quang Trung. Luật Gia Long trong Hội điển không ghi cực hình voi giày. Và trong các hình luật đời trước từ nhà Lê đến nhà Tùy cũng không có lối xử tử này. Các con Quang Trung bị kết án lăng trì, nhưng có lẽ Gia Long thấy hình phạt này quá tàn ác nên thay bằng voi xé xác vì cho voi xé xác thì chết nhanh hơn là lăng trì, xét cho cùng thì những đứa trẻ này không có tội, tội là ở đời cha đời bác chứ không phải là họ. Cực hình voi xé xác không ghi trong luật, nhưng trường hợp này cho thấy tương đương với lăng trì. Bùi Thị Xuân chỉ là tướng, không thể bị xử nặng hơn chồng, nghĩa là không thể ngang hàng với các con của Quang Trung. Bissachère là một con người hồ đồ, thích khoe khoang và thiếu hiểu biết về văn hóa Á Đông mà có khi ông còn không hiểu nổi đến cả văn hóa Pháp của ông. Cần phải nhắc lại cho Bissachère về tội tử hình của cả nước Pháp nữa, vì có lẽ ông cũng không biết đến các hình thức này. Trước cách mạng Pháp 1789, có những cách xử tử sau la potence treo cổ, la bucher đốt, la roue nghiền xay bánh xe, l’écartèlement xé xác bằng ngựa, tức tứ/ngũ mã phanh thây, còn décapitation chém chỉ dành cho giới quý tộc. Sự nghiền xay bằng bánh xe, sự đốt cháy và ngựa xé xác còn độc ác hơn cả voi xé xác. Về sự hồ đồ, chúng ta dễ nhận thấy những dòng viết về Bùi Thị Xuân của ông. Đồng ý, rằng ông rất kính trọng bà, và bản thân tôi cũng vậy, nhưng đến nỗi tô hồng hình tượng của bà đến mức bôi nhọ cả Gia Long như vậy, thực sự rất bất hợp lý. Tiếp đến là về tính thích khoe khoang của giám mục. Ông đã khoe khoang với Montyon và được Montyon ghi lại như sau Ông Bissachère đã sống 18 năm ở Bắc Hà và Nam Hà, đã đi hầu hết khắp nơi trên đất nước này và các nước lân cận; ông nghe và nói được tiếng và đã có quan hẹ với tất cả mọi tầng lớp dân chúng ở đây. Là vị cha thực tế, tâm giao, cố vấn của giáo dân, khá nhiều trong xứ này, ông giao thiệp với những nhân vật hàng đầu của quốc gia, ông thường hội họp với các quan, chinh ông cũng có văn bằng làm quan; theo lệnh của triều đình, ông có những người Bắc phục dịch riêng cho ông; nhiều lần ông được bệ kiến hoàng đế. Bissachère trốn chui trốn lủi qua các đợt đàn áp đạo giáo 1795, 1798, 1799 dưới triều Cảnh Thịnh, vậy ông đã làm quan dưới triều vua nào? Khi Gia Long ra Bắc qua Nghệ An, bề trên của ông là giám mục Labarbette chức vụ của ông ở miền Bắc tương đương Bá Đa Lộc ở miền Nam còn đi trốn vì chưa biết thái độ Gia Long với đạo thế nào, nói gì đến một giám mục vô danh tiểu tốt như Bissachère. Cuối cùng, về độ thiếu hiểu biết văn hóa của Bissachère. Đáng nhẽ ra sống 18 năm ở nước ta, Bissachère phải hiểu biết văn hóa Việt hơn cả Dan Hauer. Nhưng không. Khi các tướng tài bị bắt, họ thường được dụ hàng, không dụ hàng được mới xử tử. Trong thời gian nội chiến, có những tướng của Nguyễn Ánh sang phe Tây Sơn và ngược lại. Trần Quang Diệu khi chiếm được thành Bình Định, ông đã khóc trước thi hài Võ Tánh trước đó Võ Tánh đã tử tiết để đảm bảo an toàn cho quân Nguyễn rồi làm lễ chôn cất vị anh hùng nhà Nguyễn rất trọng thể. Kết luận Đoạn kết cuộc đời nữ tướng Bùi Thị Xuân như thế nào, tôi đã trình bày ở trên. Không hề có chuyện bà bị voi giày, và cũng chẳng hề có cuộc đối đáp đậm chất sử thi với Gia Long như những gì mà giám mục Bissachère viết cả. Vì vậy, tôi tạm đi đến kết luận, Bùi Thị Xuân đã mất tích. Việc bà đã qua đời như thế nào hiện vẫn còn là một nghi vấn lịch sử. Hà Nội, ngày 20 tháng 2 năm 2018. Tài liệu tham khảo Chương 3 và chương 9 sách Vua Gia Long và người Pháp, NXB Hồng Đức, 2017. Chú thích [1] [VOV2] - Bùi Thị Xuân là một nữ tướng thời Tây Sơn. Bà là một trong số những nữ anh hùng kiệt xuất, với những chiến công hiển hách được lưu truyền trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đô đốc Bùi Thị Xuân là người huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn, nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Theo nhà sử học Lê Văn Lan, Đô đốc Bùi Thị Xuân chính là một trong số những nữ anh hùng kiệt xuất nhất, với những chiến công hiển hách được lưu truyền trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc "Ngay từ thời thiếu nữ, Bùi Thị Xuân đã là người có thiên hướng về võ nghệ và bà đã thực hiện chí hướng ấy của mình bằng cách rất chăm tập luyện võ nghệ. Thầy dạy võ của nữ tướng Bùi Thị Xuân chính là vị quan đô thống nổi tiếng thời bấy giờ Ngô Mãnh. Với tài năng võ nghệ và với sự luyện rèn thì không lấy làm lạ khi phong trào Tây Sơn khởi dấy, Bùi Thị Xuân đã nhanh chóng trở thành nữ tướng dưới cờ của Tây Sơn tam kiệt. Và ngay từ khi cùng chồng là Trần Quang Diệu tham gia phong trào nghĩa quân Tây Sơn từ năm 1771 thì với tư cách là nữ tướng, Bùi Thị Xuân còn được nhận thêm 1 danh hiệu nữ tướng nữa ngoài danh hiệu Nữ tướng áo đỏ, đó là danh hiệu Nữ tướng "Tượng binh". Cũng theo nhà sử học Lê Văn Lan, không chỉ dũng cảm, có tài sử dụng song kiếm, cưỡi ngựa bắn cung khi ra trận, nữ tướng Bùi Thị Xuân còn có biệt tài huấn luyện voi trận. Dưới quyền Đô đốc Bùi Thị Xuân có 5000 nữ binh và 200 thớt voi. Lực lượng tượng binh và nghệ thuật đánh trận bằng voi chiến là nét đặc sắc có một không hai của phong trào Tây Sơn cũng như lịch sử quân sự nước Việt thời đó "Tài võ nghệ của Bùi Thị Xuân lúc bấy giờ có chỗ để phô diễn ở việc luyện rèn và tổ chức nên 1 đội quân đặc biệt của nghĩa quân Tây Sơn, đó là voi chiến tượng binh. Tài liệu còn nói rõ đội tượng binh do Bùi Thị Xuân quản lý luyện rèn rất cẩn thận và tài năng chiến trận, khả năng sung sát cực kỳ lợi hại và đặc biệt đông đúc với số lượng 100 con voi". Tài năng của nữ tướng Bùi Thị Xuân còn thể hiện vào năm 1773, khi chủ tướng Tây Sơn Nguyễn Nhạc cùng Nguyễn Huệ mở rộng địa bàn đem toàn quân xuống đánh Quy Nhơn thì Bùi Thị Xuân một mình ở lại trông giữ và bảo vệ Hoàng thành. Về sự kiện này, Nguyễn Đức Nhuệ thông tin Có một sự kiện rất quan trọng là năm 1785, Nguyễn Ánh xin viện trợ từ Thái Lan tức là Xiêm 5 vạn quân đã theo chân Nguyễn Ánh về để chống lại Tây Sơn và Nguyễn Huệ đã bố trí một trận đánh trên sông Rạch Gầm - Xoài Mút rất nổi tiếng tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm. Trong trận đó nhiều tư liệu xác minh là bà Bùi Thị Xuân cùng ông Trần Quang Diệu đã phụ trách mũi bộ binh để tấn công vào quân Chu Tăng, Chu Xương của Xiêm". Không chỉ giỏi giang võ nghệ, Bùi Thị Xuân còn thể hiện lòng thương dân khi được cử làm Trấn Thủ trấn Quảng Nam. Bà mở kho phát chẩn, trừng trị bọn cường hào và giúp cho dân được an cư lạc nghiệp, nên rất được lòng dân cảm phục. Nguyễn Đức Nhuệ cho biết Bùi Thị Xuân được đánh giá là 1 trong 10 nữ tướng, 10 hiện tượng đặc biệt của phụ nữ Việt Nam thời kỳ bấy giờ. Đối với vị Đô đốc này thì có lẽ là không có sử sách nào có thể mô tả hết được tinh thần, sự đóng góp, nhiệt huyết cho phong trào Tây Sơn. Một là bà đã từng được giao giữ chức Trấn thủ Quảng Nam trong thời điểm dân cư loạn lạc, đói kém, bà đã tổ chức sản xuất, chiêu tập nhân dân mở mang cày cấy, thành lập xóm làng trở nên một vùng rất an cư, lạc nghiệp… Năm 1801 khi Thiếu phó Trần Quang Diệu đưa đại quân từ Phú Xuân vào vây hãm và đánh hạ thành Quy Nhơn của chúa Nguyễn Ánh thì nữ tướng Bùi Thị Xuân ở lại kinh thành hộ giá vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản. Khi Nguyễn Ánh đưa thủy quân vòng qua Quy Nhơn bất ngờ đánh thẳng vào Phú Xuân, quân Tây Sơn ở đây chống cự không nổi, Bùi Thị Xuân đã phải đưa vua Cảnh Thịnh chạy thẳng ra Thăng Long. Mùa Xuân năm 1802, sau một năm củng cố lực lượng, Đô đốc Bùi Thị Xuân đã cùng vua Cảnh Thịnh đưa quân vào để mưu việc lấy lại Phú Xuân nhưng bất thành. Đô đốc Bùi Thị Xuân anh dũng hy sinh khi 45 tuổi. Bà là một vị nữ anh hùng đã xây dựng nên triều đại Tây Sơn. Hiện nay, tại nhiều thành phố ở nước ta, tên bà được lấy để đặt tên cho những con đường và các trường học như một cách tỏ lòng tôn kính, ngưỡng mộ với vị nữ tướng tài ba.

bùi thị xuân 2k3 chết